Giáo Xứ Đồng Tâm: tháng 12 2011

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011

Lào: Đàn áp kitô hữu mùa Giáng Sinh

Những đợt bắt bớ và đe doạ mới

ROME, Ngày thứ tư 28 tháng 12, 2011 (Le Monde vu de Rome) – Những đợt bắt bớ và đe dọa mới đối với các kitô hữu đang xẩy ra trong các tỉnh khác nhau tại Lào, lập lại tình trạng đáng buồn của các năm trước, theo "Giáo Hội Á Châu" (Eglises d’Asie), là bản tin của cơ quan truyền thông của Hội Thừa Sai Ba Lê (Missions étrangères de Paris), có nhắc đến nhiều "nguồn tin từ các hội thánh Tin Lành khác nhau." 

Hôm qua, ngày 27 tháng 12, các giới chức của làng Huey, nằm trong quận Adsaphangthong (ad-sapanthong) thuộc tỉnh Savannakhet, đã từ chối không cho chôn cất một kitô hữu, qua đời ngày 25 tháng 12 vừa qua.

Uỷ ban nhân dân của làng - gồm có ông lý trưởng, đặc uỷ 'các vấn đề tôn giáo' và trưởng đoàn nhân dân tự vệ điạ phương - đã ngăn cấm gia đình của một người chết không được chôn cất theo nghi thức kitô trong làng.

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2011

Giáo điểm Con Cuông ấm áp niềm vui Giáng Sinh



Mặc dù sự căng thẳng vẫn chưa có dấu hiệu nguôi ngoai nhưng không vì thế mà niềm vui Giáng sinh của bà con giáo dân giáo điểm Con Cuông bị tước đoạt.
Như một cách thức để bày tỏ niềm xác tín và sự hân hoan từ bên trong trước niềm vui được mừng đón Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, các bạn trẻ giáo điểm chủ động đến cho đêm diễn nguyện tại giáo xứ Quan Lãng những tiết mục văn nghệ mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Thái. Sự trẻ trung, khoẻ khoắn và uyển chuyển của các thiếu nữ Thái vì thế đã làm cho hương sắc mùa Giáng sinh Quan Lãng năm nay thêm phần đậm đặc và phong phú hơn.
Niềm vui của ngày đại lễ tiếp tục bao phủ giáo điểm trong buổi sáng ngày 26/12, nhờ có sự hiện diện trân quý của cha Phêrô Trần Phúc Chính, trưởng ban Loan báo tin mừng giáo phận, cha Giuse Trần Thanh Hương, nguyên quản xứ Quan Lãng và là người đã dành rất nhiều thao thức cho việc thành lập giáo điểm này ngay từ những năm chín mươi của thế kỷ trước, cha Giuse Phạm Ngọc Quang, chánh xứ Quan Lãng và cha phó Gioan Baotixita Nguyễn Đình Thục. Cùng với Thánh lễ đồng tế và những món quà Giáng sinh, giáo điểm còn vui mừng đón nhận thêm 3 tín hữu mới (nâng tổng số tín hữu tân tòng tại đây lên con số 53 người).
Chưa thể nói trước điều gì sẽ xảy ra cho giáo điểm Con Cuông và những nơi đang bị bách hại, nhưng tin tưởng vào sự quan phòng của Đấng đã hạ sinh làm người, Đấng đã và đang mời gọi con người bước theo ánh sao chân lý và tính yêu, chúng ta cùng gởi đến các giáo hữu giáo điểm Con Cuông lời cầu chúc bình an. Chúc mọi người có một niềm vui Noel kéo dài.

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2011

Phẩm phục của Chức Thánh Công giáo


10 QUỐC GIA ĐỐI XỬ HÀ KHẮC ĐỐI VỚI ĐẠO THIÊN CHÚA




Thiên chúa giáo là một trong những tôn giáo phổ biến rộng trên thế giới; thế nhưng ở một số quốc gia, những người theo tôn giáo này bị truy bức, chèn ép, bị tàn sát bởi đức tin của họ…
Sau đây là danh sách 10 quốc gia được coi là có những hành vi hà khắc với Thiên chúa giáo:
theo thống kê của Open Doors World.
1. Bắc Triều Tiên
Dân số: 20 người, so 400.000 theo đạo Thiên chúa;
Những người theo đọ Thiên chúa tại Bắc Triều Tiên phải che dấu đức tin của mình. Ai tàng trữ Kinh Thánh bị chính quyền phát hiện sẽ bị đưa đi lao động khổ sai.

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2011

Lịch Sử Đạo Thiên Chúa Ở Việt Nam


NGƯỜI TÂY PHƯƠNG ĐẶT CHÂN LÊN ĐẤT VIỆT NAM
Âu và Á châu cùng ở trên cựu lục địa, từ đời thượng cổ đã giao thông với nhau, việc giao thông đó không phải thường có luôn. Sử Tàu chép: năm 166 (sau Thiên Chúa giáng sinh) đã có những lái buôn La Mã, mà người Tàu gọi là sứ thần, đến triều đình Trung Quốc sau khi qua nước ta. Đến năm 226, trong đời Tam quốc, lại có một lái buôn La Mã đến thủ đô quận Giao chỉ, viên thái thú quận đó cho thủ hạ đưa người này đến kinh đô nước Ngô vì lúc đó đất Giao chỉ thuộc về Đông Ngô cai trị.
Ở thế kỷ thứ 7, mấy người theo đạo Giatô về phái Cảnh giáo (Nestoriens) đã sang Tàu. Người thứ nhất mà người Tàu gọi là Olopen từ Ba Tư sang Tàu, nhưng chắc hẳn những người về phái Cản giáo đó không đi qua nước Đại Cồ Việt và kinh đô Hoa Lư của vua Đinh và vua Lê Hoàn.
Đến thế kỷ 13, vì quân Mông Cổ sang xâm lược Âu châu, đến tận miền Trung Âu, nên Đức Giáo Hoàng(1) mới phái người sang Tàu để điều đình với các vua Mông Cổ (2). Năm 1271, hai người trong họ Polo ở thành Venise là Nicolo và Mattéo đã sang Trung Quốc đến tận kinh đô của nguyên Thế Tổ tức Hốt Tất Liệt. Lại đến năm 1275, Marco Polo3 là con Nicolo cùng cha và chú lại do đường bộ qua miền Cận Đông và Trung Á, cao nguyên Parmir sang nước Tàu đến kinh đô của Hốt Tất Liệt hồi đó là Cambaluc ở gần Bắc Kinh. Marco Polo rất được Nguyên chúa tin dùng, giao cho nhiều công việc trọng đại. Khi thì Marco Polo ở trong triều giúp các việc chính trị và hành chính, khi thì được vua phái đi sứ ở các miền Hoa trung, Hoa nam cùng Vân Nam và các nước lân cận Trung Hoa như Chiêm Thành, Ba Tư, có khi lại được cử làm tổng trấn một tỉnh lớn. Chắc hẳn trong khi từ Vân Nam sang Chiêm Thành, viên “sứ thần Mông Cổ”, Marco Polo, có đi qua nước Việt Nam vì trong cuốn “Thế giới kỳ quan” (Les Merveilles du monde) Marco Polo cũng có nói qua xứ Bắc Kỳ. Sau 17 năm ở Tàu, ba người trong họ Polo mới có dịp về Âu Châu. Năm 1291, Nguyên Thế Tổ sai ba người này đi đường bể đưa một công chúa Mông Cổ sang Ba Tư để gả cho vua Mông Cổ ở xứ Ba Tư là Arghoun vừa mới góa vợ. Marco Polo từ giã Nguyên chúa và mang theo thư của ngài gửi cho Đức Giáo Hoàng và vua các nước Pháp, Anh cùng Castille rồi xuống tàu qua bể Trung Quốc, Ấn Độ dương đến Ormuz (Ba Tư). Marco Polo chắc hẳn có ghé lại kinh đô Đồ Bàn của người Chàm và vì ngược gió nên phải dừng ở bờ bể Sumatra trong năm tháng. Khi Marco Polo đưa công chúa Mông Cổ đến nơi thì vua Ba Tư đã chết, người con vừa lên nối ngôi lại thay cha lấy công chúa. Ba người trong họ Polo từ Ba Tư đi đường bộ Tanris, Azerbeidjan và Trébizonde đến Constantinople và năm 1295 mới về đến Venise.4

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

Ai dọn đường… Tôi hay Chúa???


LTCG (11.12.201   Đúng là hỏi có vẻ ngược đời. Bốn thánh sử đều kêu gọi thiết tha, trong năm B này, Tin Mừng Máccô khẳng định: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mc 1,3).
Rõ ràng là người nghe, người đọc… là tôi chứ còn ai vào đây nữa ???
Nhưng nhìn vào thực tế chúng tôi tự hỏi rằng sau hơn 30 lần dọn đường bở hơi tai… tại sao Chúa chẳng chịu đi vào con đường của mình nhỉ???
Thế là tôi cứ phải lủi thủi một mình lê bước trên con đường lữ thứ trần gian!!!
Một mình một bóng…
Nói là Chúa đồng hành với mình… nhưng tại sao tôi chẳng thấy Chúa cùng đi với mình nhỉ???
Vậy thì chắc là tôi phải xét lại xem tôi đã dọn đường thế nào???
Tất nhiên là tôi đã dọn đường bằng nhiều cách:

Con đường Tình yêu: Nhận biết Ơn gọi

Con đường Tình yêu: Nhận biết Ơn gọi
(Theo Thánh Thomas Aquinas,
Thánh Inhaxiô, và Chân phước GH Gioan PhaolôII)
Tác giả: Joseph Bolin
Đối với người Công giáo, có 2 cách chọn đường đi trong cuộc sống. Người ta có thể bắt đầu bằng suy nghĩ về mục đích sống, và suy nghĩ về điều gì sẽ hữu ích nhất trong việc đạt mục đích đó, hoặc người ta có thể tự vấn về điều Thiên Chúa muốn mình làm trong cuộc sống. Các phương pháp này khác nhau và bổ túc lẫn nhau, nhưng chỉ khi nào sách về ơn gọi áp dụng 2 phương pháp khác nhau cơ bản này. Cuốn sách này nhằm kiểm tra 2 phương pháp cơ bản này đối với vấn đề ơn gọi, những thuận lợi và những nguy hiểm tiềm ẩn của mỗi phương pháp, và đề nghị cách nhìn đơn giản về những ơn gọi tìm cách duy trì những lợi ích của mỗi phương pháp. Không như đa số những sách khác về ơn gọi, sách này không là một luận thuyết thần học hướng dẫn những người trí thức, cũng không là sách hướng dẫn ơn gọi, mà gồm những lời khuyên chi tiết về cách chọn ơn gọi. Hơn nữa, sách này tìm cách đưa ra viễn cảnh sâu xa mà đơn giản và khả dĩ tiếp cận về ơn gọi, cho cả những người tìm kiếm ơn gọi và các vị linh hướng về ơn gọi để có nền tảng vững chắc, có thể hình thành phán đoán tốt về những tình huống đặc biệt mà họ đang xử lý.

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

Ngày Chúa Nhật (11-12-2011) - Trang suy niệm

Ngày Chúa Nhật (11-12-2011) - Trang suy niệm

11/12/2011 CHÚA NHẬT TUẦN 3 MV – B
Ga 1,5-8.19-28
*****
LÀM CHỨNG VỚI LỜI NÓI “KHÔNG”
Và đây là lời chứng của ông Gioan…: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” (Ga 1,6-7)
Suy niệm: Đại hội Sea Games 26 đã khép lại nhưng trong lòng người hâm mộ Việt Nam vẫn còn một nỗi buồn trĩu nặng, không phải vì đội tuyển bóng đá thân yêu để vuột mất giấc mơ vàng, mà chính vì nghi vấn các cầu thủ đã bán độ: Phải chăng họ đã không thể nói “không” trước cơn cám dỗ của bạc tiền?
Có thể nói Gioan Tẩy Giả là vị ngôn sứ biết nói “không.” Quả thực Gioan đã nói “không” ngay từ lúc ngài khước từ một cuộc sống an nhàn bình lặng–và chắc chắn được nể trọng–trong chức vụ tư tế thừa hưởng từ cha mình là Dacaria. Ngài đã nói “không” đối với chính mình khi chọn một cuộc sống khổ hạnh để thực thi sứ mạng giới thiệu Đấng Cứu Thế. Ngài nói “Tôi không phải là Đức Kitô” để Đức Kitô đích thực được nhận biết, được tin theo và được yêu mến.

Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011


CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG (Mc 1,1-8)
Chuẩn Bị Đón Chúa Đến
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,1-8) kể lại công việc của ông Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu chưa xuất hiện. Nhưng thực ra, từ đầu cho đến cuối bài, mọi chi tiết đều có liên quan đến Người và đều chỉ mang một ý hướng chính yếu là cung cấp những chỉ dẫn về vị thế và nhiệm vụ của Người.
1. Mở đầu là lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (c.1). Hạn từ “khởi đầu” (arkhē) có thể được hiểu theo nghĩa thời gian hoặc theo nghĩa nguyên nhân. Hiểu theo nghĩa thời gian, nó chỉ điểm khởi đầu của một chuỗi các biến cố và thực tại. Hiều theo nghĩa nguyên nhân, nó chỉ tính chất nguồn khởi của thực tại được đề cập. Trong c.1 này, arkhē vừa mang nghĩa thời gian vừa mang nghĩa nguyên nhân. Điều được đề cập sẽ vừa là khởi điểm vừa là nguồn khởi của Tin Mừng mà Hội Thánh loan báo.
Nhưng điều được đề cập ở đây là gì? Nói cách khác, hạn từ arkhē ở c.1 quy chiếu về thực tại nào? Cái gì là arkhē của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố? Ở đây, hạn từ này có thể quy chiếu về phần dẫn nhập của sách Mc, tức là phần kể về giai đoạn chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu (1,2-13); hoặc quy chiếu về toàn bộ cuốn sách. Có lẽ nên ưu tiên hiểu theo cách thứ hai: công trình của Đức Giêsu (mà đỉnh điểm là cái chết và sự phục sinh) chính là khởi đầu, nguồn mạch và nền tảng của Tin Mừng mà Hội Thánh đang sống và công bố.
Tin Mừng được diễn đạt trong hình thức trọn vẹn: Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Ở trung tâm của sứ điệp, như vậy, không phải là một giới luật hay một lời hứa hẹn, mà là một sự kiện thực tế, rằng con người lịch sử - cụ thể Giêsu chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Lời loan báo này liên quan đến căn tính của Đức Giêsu và cho chúng ta biết Ngài là ai, vừa xét trong vị thế của Ngài đối với nhân loại (“Đấng Kitô”), vừa xét trong tương quan của Ngài với Thiên Chúa (“Con Thiên Chúa”). Đối với nhân loại, Ngài là Đấng Mêsia. Hạn từ này cho thấy một cách rõ ràng công trình cứu độ của Đức Giêsu không bị giới hạn vào cảnh vực cá nhân, mà tác động trực tiếp đến cảnh vực xã hội – cộng đồng, vì Vua Mêsia là vua và là Đấng cứu độ không chỉ của một cá nhân. Đối với Thiên Chúa, Đức Giêsu ở trong tương quan rất đặc biệt: tương quan con thảo. Tất cả những kẻ đến trước đều chỉ là các đầy tớ (x.12,2-5), còn Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài (x.1,1; 9,7). Mối tương quan này là thực tại riêng biệt của Đức Giêsu, làm cho Người khác hẳn tất cả mọi con người khác trong nhân loại. Mối tương quan này cũng là nền tảng của vị thế và nhiệm vụ của Người đối với thế gian.
Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh không phải là chuẩn bị cho một lễ hội vào dịp cuối năm, mà chính yếu và thực chất là chuẩn bị để đón Đấng ấy: Người là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa. Chúng ta phải đọc lời công bố Tin Mừng của Hội Thánh ở câu đề tựa Mc 1,1 trong khung cảnh Mùa Vọng với ý thức đó.
2. Sau câu đề tựa (c.1) là ba đoạn văn nhằm làm sáng tỏ dung mạo của Đức Giêsu trong giai đoạn lịch sử đầu tiên của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ gồm đoạn thứ nhất (cc.2-8), nói về hoạt động của ông Gioan Tẩy Giả.
Trước tiên là một lời ngôn sứ được trích dẫn: “Trong sách ngôn sứ Isaia có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (cc.2-3). Với lời trích dẫn này, tác giả Mc muốn làm nổi bật mối liên hệ với sứ điệp của Cựu Ước. Có một sự tương ứng trực tiếp giữa tiếng hô trong oang địa (Is 40,3) với sự xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả trong hoang địa (Mc 1,4). Sự xuất hiện và các công việc của ông Gioan đã được ngôn sứ Isaia loan báo trước, và nơi ông Gioan, chương trình của Thiên Chúa bắt đầu đi vào giai đoạn thực hiện.
Thực ra, dưới danh nghĩa ngôn sứ Isaia, tác giả Mc gộp vào hai bản văn khác nhau: bản thứ nhất (c.2) trích từ Xh 23,20 và Ml 3,1; bản thứ hai (c.3) trích từ Is 40,3. Nhưng trong Mc 1,2 Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với Đấng đang đến, tức là với Đức Giêsu, chứ không phải với dân Israel. Biến cố Đức Giêsu đến là một biến cố có ý nghĩa đặc biệt; tính chất đặc biệt ngoại thường này được thể hiện trong sự kiện nó được chuẩn bị như là biến cố chính Thiên Chúa đến (Ml 3,1), bởi một sứ giả. Đó là điều hoàn toàn khác biệt, vì không bao giờ có ngôn sứ nào được chuẩn bị như thế. Con đường phải được chuẩn bị ở đây là con đường của Đức Chúa.
Rõ ràng tác giả Mc muốn khẳng định ngay từ khởi đầu rằng nơi Đức Giêsu, chính Đức Chúa đến với dân Người. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở rằng sự chuẩn bị của chúng ta trong Mùa Vọng này chính là sự chuẩn bị để đón Đức Chúa. Đấng đang đến là Đức Chúa, chứ không phải là một lễ hội, cho dù là lễ hội của Đạo Chúa.
3. Đúng theo lời Kinh Thánh được trích dẫn ở cc.2-3, “Ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa” (c.4a). Ông có nhiệm vụ kép: kêu gọi dân chuẩn bị (cc.4-5) và rao giảng về Đấng đang đến (cc.7-8). Những mô tả về cách trang phục và ăn uống của ông Gioan (c.6) giúp cho người ta hiểu rõ hơn về ông và nhiệm vụ của ông.
Trước hết, ông Gioan “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (cc.4b-5). Chuẩn bị đón Đức Chúa, có bốn điều phải làm: sám hối, thú tội, chịu phép rửa và được ơn tha tội. Hai yếu tố đầu nhấn mạnh sự thanh tẩy khỏi tội lỗi; hai yếu tố sau nhấn mạnh sự giao hòa với Thiên Chúa. (Đó cũng phải là hai yếu tố quan trọng trong việc chúng ta chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng này và trong suốt cuộc đời). Ông Gioan thành công rực rỡ trong nhiệm vụ: “Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông” (c.5). Thực ra, hoạt động của ông Gioan có phần “lập dị”. Thứ nhất, ông không đến với người ta như các ngôn sứ đã làm và như chính Chúa Giêsu cũng sẽ làm. Ông ở yên trong hoang địa và mọi người kéo đến gặp ông ở đó. Thứ hai, ông Gioan làm phép rửa trong nước sông Giorđan. Bình thường, nước sông không thể được sử dụng để cử hành việc thanh tẩy theo nghi thức. Vì thế, hàng lãnh đạo tôn giáo giữ khoảng cách với công việc của ông Gioan, và dân chúng đến với ông là đang làm một hành động đặc biệt, vượt khỏi khung cảnh của những thực hành tôn giáo bình thường.
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” (c.6). Cách trang phục này chứng tỏ ông Gioan chỉ sống cho một mình Thiên Chúa thôi. Thức ăn của ông hoàn toàn lấy từ hoang địa, và như thế, cắt đứt liên hệ với những sản phẩm của đất Palestina. Về thắt lưng, Gioan và Êlia là các nhân vật duy nhất trong Kinh Thánh mang thắt lưng bằng dây da, và đó là một nét khu biệt của ông Êlia. Ông Gioan được đồng hóa với ông Êlia và vì thế, mang một tầm quan trọng đặc biệt trong việc loan báo về căn tính của Đức Giêsu, Đấng đang đến. Ông Êlia là ngôn sứ chỉ hoàn toàn phục vụ Thiên Chúa, hướng trọn con người và sinh mệnh của mình về Thiên Chúa, và mọi điều ông làm chỉ là để dẫn dắt dân về với Thiên Chúa. Sự hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa đã là yếu tố đặc trưng làm nên dung mạo của Êlia và làm cho ông trở thành mẫu mực của các ngôn sứ. Thế mà ông Gioan lại được đồng hóa với ông! Điều đó có nghĩa là Đấng mà ông Gioan chuẩn bị dân chúng đón Người, phải là Đấng có một căn tính thật sự đặc biệt. Giống như Êlia, ông Gioan chỉ phục vụ một mình Thiên Chúa. Hành động của ông, vì thế, ngầm cho thấy phẩm giá cao cả của Đức Giêsu và chứng tỏ rằng nơi Đức Giêsu - Con Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đang đến với dân Người.
Ông Gioan còn có sứ mạng rao giảng minh nhiên về Đấng đang đến. “Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần" (cc.7-8). Rõ ràng là xét cả về quyền năng, cả về vị thế, cả về hành động, Đấng đang đến đều hơn hẳn ông Gioan, cho dù ông được Thiên Chúa sai đến và ông được đồng hóa với ngôn sứ Êlia.
Như vậy, bằng việc kêu gọi dân chuẩn bị, bằng cách trang phục và ăn uống của mình, và bằng lời rao giảng minh nhiên của mình, ông Gioan đã cho ta thấy Đấng đang đến là ai. Đó là chính Đức Chúa.
Trong Mùa Vọng, chúng ta chuẩn bị để đón chính Đức Chúa đến viếng thăm dân Người. Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa; nơi Ngài, chính Thiên Chúa đang đến và đón nhận tất cả nhân loại vào trong sự sống thần linh của Người.